Nguyên nhân chiến tranh Chiến_tranh_Afghanistan-Anh_thứ_nhất

Thế kỷ 19 là thời kỳ cạnh tranh ngoại giao giữa đế quốc Anh và đế quốc Nga về các phạm vi ảnh hưởng ở châu Á được gọi là "Trò chơi lớn" đối với người Anh và "Cuộc đấu bóng tối" đối với người Nga.[3] Ngoại trừ Hoàng đế Paven I, người đã ra lệnh xâm lược Ấn Độ vào năm 1800 (đã bị hủy bỏ sau vụ ám sát năm 1801), không có Sa hoàng Nga nào nghiêm túc về việc xâm chiếm Ấn Độ. Trong phần lớn thế kỷ 19, Nga được coi là "kẻ thù" của Anh. Bất kỳ bước tiến nào của Nga ở Trung Á luôn được giả định (ở Luân Đôn) là hướng tới việc chinh phục Ấn Độ như nhà sử học người Mỹ David Fromkin nhận xét, "cho dù sự diễn giải có gượng gạo thế nào đi chăng nữa."[4] Năm 1832, Dự luật cải cách đầu tiên hạ thấp các yêu cầu quyền bầu cử để bỏ phiếu và giữ chức vụ tại Vương quốc Anh đã được thông qua. Hoàng đế cực kỳ bảo thủ Nikolai I của Nga đã phản đối công khai dự luật này, tạo tiền đề cho một "cuộc chiến tranh lạnh" giữa Anh-Nga. Nhiều người tin rằng chế độ chuyên chế Nga và nền dân chủ Anh buộc phải đụng độ.[5] Năm 1837, huân tước PalmerstonJohn Hobhouse, lo sợ sự bất ổn của Afghanistan, Sindh và quyền lực ngày càng tăng của Đế quốc Sikh ở phía tây bắc đã làm dấy lên nỗi ám ảnh về một cuộc xâm lược của Nga tới Ấn Độ thuộc Anh qua Afghanistan. Đế quốc Nga đang dần mở rộng lãnh thổ của mình sang Trung Á, và điều này được Công ty Đông Ấn xem là mối đe dọa khả dĩ đối với lợi ích của họ ở Ấn Độ. Ở Nga vào thế kỷ 19, tư tưởng về "sứ mệnh đặc biệt ở phương Đông" của Nga xuất hiện, cụ thể là Nga có "nghĩa vụ" chinh phục phần lớn châu Á, mặc dù điều này nhắm trực tiếp hơn vào các quốc gia Trung Á và được cho là "Hiểm họa da vàng" của Trung Quốc hơn Ấn Độ.[6] Người Anh có xu hướng hiểu sai chính sách đối ngoại của Hoàng đế Nikolai I là chống Anh và có ý định bành trướng ở châu Á. Trong khi thực tế, mặc dù Nikolai không thích Anh là một quốc gia dân chủ tự do mà ông ta coi là khá "lạ", ông ta luôn tin rằng có thể hiểu được Anh về các phạm vi ảnh hưởng ở châu Á và tin rằng bản chất bảo thủ của xã hội Anh sẽ trì hoãn sự ra đời của chủ nghĩa tự do.[7] Mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại của Nikolai không phải là chinh phục châu Á mà là duy trì hiện trạng ở châu Âu, đặc biệt là hợp tác với Phổ và Áo và cô lập Pháp vì Louis-Philippe I của Pháp là một người mà Nikolai ghét là "kẻ tiếm quyền".[8] duc d'Orleans từng là bạn của Nikolai, nhưng khi ông ta lên ngôi vương nước Pháp sau cuộc cách mạng năm 1830, Nikolai đã cảm thấy căm thù người bạn cũ của mình, người mà ông ta thấy đã vượt qua những gì ông ta cho là mặt tối của chủ nghĩa tự do.[9]

Công ty đã phái một phái viên đến Kabul để thành lập liên minh với Amir của Afghanistan, Dost Mohammad Khan chống lại Nga.[10][11] Dost Mohammad gần đây đã mất thủ đô Peshawar lần thứ hai vào tay Đế quốc Sikh và sẵn sàng thành lập liên minh với Anh nếu họ ủng hộ chiếm lại Peshawar, tuy nhiên người Anh không sẵn lòng. Thay vào đó, người Anh sợ Dal Khalsa do người Pháp đào tạo và họ coi quân đội Sikh là mối đe dọa ghê gớm hơn nhiều so với người Afghanistan không có quân đội. Người Afghanistan chỉ tuyển quân từ bộ lạc; dưới ngọn cờ thánh chiến, dân của các bộ lạc sẽ chiến đấu cho Amir.[12] Dal Khalsa là một lực lượng khổng lồ đã được đào tạo bởi các sĩ quan Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại và được coi là một trong những đội quân mạnh nhất trên toàn tiểu lục địa Ấn Độ. Vì lý do này, huân tước Auckland ưa thích một liên minh với Punjab hơn là liên minh với một Afghanistan mà không có gì tương đương với Dal Khalsa.[12] Người Anh có thể đã có một liên minh với Punjab hoặc Afghanistan, nhưng không phải cả hai cùng một lúc.[12] Khi Toàn quyền Ấn Độ, huân tước Auckland nghe tin về sự xuất hiện của Đặc phái viên Nga Jan Prosper Witkiewicz (được biết đến với tên tiếng Nga là Yan Vitkevich) ở Kabul và khả năng Dost Mohammad có thể chuyển sang liên minh với Nga để được hỗ trợ, cố vấn chính trị của ông đã phóng đại mối đe dọa.[13] Burnes mô tả Witkiewicz: "Ông ta là một người đàn ông lịch thiệp và dễ chịu, khoảng ba mươi tuổi, nói tiếng Pháp, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Ba Tư trôi chảy, và mặc đồng phục của sĩ quan Cossacks"[14] Sự hiện diện của Witkiewicz đã khiến Burnes rơi vào trạng thái tuyệt vọng, khiến một người đương thời lưu ý rằng ông ta "đã buông xuôi tuyệt vọng, quấn đầu bằng khăn ướt và khăn tay và đưa vào lọ muối ngửi".[14] Trên thực tế, Dost Mohammad đã mời Bá tước Witkiewicz đến Kabul như một cách để khiến người Anh sợ hãi mà liên minh với ông ta để chống lại kẻ thù của mình là Ranjit Singh, Maharaja của Punjab chứ không phải vì ông ta thực sự muốn liên minh với Nga. Người Anh có quyền buộc Singh trả lại các lãnh thổ Afghanistan trước đây mà ông ta đã chinh phục trong khi người Nga thì không, điều này giải thích tại sao Dost Mohammad Khan muốn liên minh với người Anh. Alexander Burnes, một người Scotland, là trưởng ban chính trị của Công ty Đông Ấn ở Afghanistan đã viết về nhà sau khi ăn tối với Bá tước Witkiewicz và Dost Mohammad vào cuối tháng 12 năm 1837: "Chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà lộn xộn. Hoàng đế Nga đã phái một phái viên đến Kabul đề nghị... tiền [cho người Afghanistan] để chiến đấu với Rajeet Singh !!! Tôi không thể tin vào mắt hay tai của mình. "[12] Vào ngày 20 tháng 1 năm 1838, bá tước Auckland đã gửi tối hậu thư cho Dost Mohammad nói với anh ta:" Ngài phải từ bỏ tất cả các thư từ với Nga. Ngài không được tiếp các phái viên từ họ hay làm bất cứ điều gì với họ mà chưa có sự cho phép của chúng tôi, ngài phải đuổi Đại úy Viktevitch [Witkiewicz] đi một cách lịch sự; ngài phải từ bỏ mọi yêu sách đối với Peshawar".[15] Bản thân Burnes đã phàn nàn rằng bức thư của bá tước Auckland là "độc tài và có thái độ khinh người đến mức cho thấy ý định của tác giả rằng nó sẽ gây khó chịu", và cố gắng tránh gửi nó càng lâu càng tốt.[16] Dost Mohammad thực sự bị xúc phạm bởi bức thư, nhưng để tránh chiến tranh, ông đã nhờ cố vấn quân sự đặc biệt của mình, nhà thám hiểm người Mỹ Josiah Harlan tham gia vào các cuộc đàm phán với Burnes để xem liệu có thể thỏa hiệp được không.[17] Trên thực tế, Burnes không có quyền đàm phán bất cứ điều gì và Harlan phàn nàn rằng Burnes đang rơi vào thế kẹt, dẫn đến việc Dost Mohammad trục xuất phái bộ ngoại giao của Anh vào ngày 26 tháng 4 năm 1838.[17]

Nỗi lo sợ của Anh về một cuộc xâm lược Ấn Độ của Nga ngày càng rõ ràng hơn khi các cuộc đàm phán giữa người Afghanistan và người Nga bị đổ vỡ vào năm 1838. Vương triều Qajar của Ba Tư, với sự hỗ trợ của Nga, đã cố gắng bao vây Herat.[3] Herat là một thành phố có lịch sử thuộc về Ba Tư mà các shah nhà Qajar đã mong muốn lấy lại từ lâu và nằm ở một vùng đồng bằng màu mỡ đến mức được gọi là "vựa lúa của Trung Á"; Bất cứ ai kiểm soát Heret và vùng nông thôn xung quanh cũng kiểm soát nguồn ngũ cốc lớn nhất ở Trung Á.[18] Nga do muốn tăng cường sự hiện diện ở Trung Á, đã thành lập liên minh với nhà Qajar Ba Tư, nơi có tranh chấp lãnh thổ với Afghanistan vì Herat là một phần của Safavid Ba Tư trước năm 1709. Kế hoạch của huân tước Auckland là đánh đuổi những kẻ bao vây và thay thế Dost Mohammad bằng Shuja Shah Durrani, người đã từng cai trị Afghanistan và sẵn sàng liên minh với bất kỳ ai có thể khôi phục vương vị Afghanistan cho ông. Có thời điểm, Shuja đã thuê một nhà thám hiểm người Mỹ Josiah Harlan để lật đổ Dost Mohammad Khan, mặc dù thực tế kinh nghiệm quân sự của Harlan chỉ bao gồm làm bác sĩ phẫu thuật với quân đội của Công ty Đông Ấn trong Chiến tranh Miến Điện lần thứ nhất.[19] Shuja Shah đã bị phế truất vào năm 1809 và sống lưu vong ở Ấn Độ thuộc Anh từ năm 1818, nhận tiền trợ cấp từ Công ty Đông Ấn vì công ty tin rằng một ngày nào đó ông ta sẽ có ích.[12] Người Anh phủ nhận rằng họ đang định xâm chiếm Afghanistan, tuyên bố rằng họ chỉ đơn thuần ủng hộ chính phủ Shuja "hợp pháp" chống lại sự can thiệp của nước ngoài và sự chống đối bè phái. "[20] Shuja Shah vào năm 1838 hầu như không được ai nhớ đến bởi trước đây ông được xem là một nhà cai trị độc ác và chuyên quyền. Ông ta gần như không có bất kì sự hỗ trợ nào từ quần chúng ở Afghanistan.[21]

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1838, huân tước Auckland đã ban hành Tuyên bố Simla tấn công Dost Mohammed Khan vì đã thực hiện "một cuộc tấn công vô cớ" vào đế quốc của "đồng minh cổ đại của chúng ta, Maharaja Ranjeet Singh", tiếp tục tuyên bố rằng Suja Shah "nổi danh trên khắp Afghanistan" sẽ trở về vương quốc cũ của mình và "được bao quanh bởi quân đội của chính mình, được hỗ trợ chống lại sự can thiệp của nước ngoài và sự chống đối bè phái bằng Quân đội Anh".[21] Khi người Ba Tư phá vỡ vòng vây của Herat và Hoàng đế Nikolai I của Nga đã ra lệnh cho Bá tước Vitkevich về nước (ông ta đã tự sát khi về tới St. Petersburg), những lý do để cố gắng đưa Shuja Shah trở lại ngai vàng Afghanistan đã biến mất[3] Nhà sử học người Anh Sir John William Kaye đã viết rằng sự thất bại của người Ba Tư trong việc chiếm Herat "như nắm được ý đồ của huân tước Auckland và làm ông ta cụt hứng vì khi đó, tất cả các lý do biện minh và cuộc viễn chinh qua Ấn Độ ngay lập tức trở nên điên rồ và là một tội ác".[21] Nhưng tại thời điểm này, Auckland đã cam kết đưa Afghanistan vào phạm vi ảnh hưởng của Anh và không có gì ngăn cản ông ta thúc đẩy cuộc xâm lược.[21] Vào ngày 25 tháng 11 năm 1838, hai đội quân hùng mạnh nhất ở tiểu lục địa Ấn Độ đã tập hợp lại trong một cuộc duyệt binh lớn tại Ferozepore khi Ranjit Singh, Maharajah của Punjab đưa Dal Khalsa để hành quân cùng với quân Ấn của Công ty Đông Ấn và quân đội Anh Ở Ấn Độ, huân tước Auckland tự mình trình bày giữa sự phô trương sắc màu và âm nhạc khi những người đàn ông mặc đồng phục rực rỡ cùng với ngựa và voi diễu hành ấn tượng về sức mạnh quân sự.[22] Huân tước Auckland tuyên bố rằng "đại quân Ấn Độ" giờ sẽ bắt đầu hành quân đến Kabul để phế truất Dost Mohammed và đưa Shuja Shah trở lại ngai vàng Afghanistan vì rõ ràng ông là Emir hợp pháp nhưng thực chất là đặt Afghanistan vào Phạm vi ảnh hưởng của Anh.[3] Công tước Wellington phát biểu tại Hạ viện đã lên án cuộc xâm lược, nói rằng những khó khăn thực sự sẽ chỉ bắt đầu sau cuộc xâm lược, lực lượng Anh-Ấn sẽ đánh bại quân đội bộ lạc Afghanistan nhưng sau đó họ sẽ phải vật lộn để giữ lấy những gì đã giành được do địa hình của dãy núi Hindu Kush và Afghanistan không có đường sá hiện đại. Công tước Wellington đã gọi toàn bộ hoạt động là "ngu ngốc" vì cho rằng Afghanistan là vùng đất của "đá, cát, sa mạc, băng và tuyết".[21]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Afghanistan-Anh_thứ_nhất http://books.google.com/books?id=fqRFCkpTdUcC&lpg=... http://hansard.millbanksystems.com/lords/1839/mar/... http://memory.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@f... http://www.gutenberg.org/cache/epub/8428/pg8428-im... http://iranicaonline.org/articles/anglo-afghan-rel... http://iranicaonline.org/articles/anglo-afghan-war... http://www.wdl.org/en/item/14410/ http://countrystudies.us/afghanistan/13.htm https://books.google.com/books?id=RX52MsrFdl4C https://books.google.com/books?id=YnYIAAAAQAAJ&pg=...